Tăng nhanh, diễn biến phức tạp
Mất cân bằng tỉ số giới tính khi sinh (TSGTKS – số bé trai/100 bé gái sinh ra sống) xuất hiện tại Việt Nam từ năm 2006, muộn hơn rất nhiều so với những nước có tình trạng tương tự. Tuy nhiên, dù xuất hiện muộn nhưng TSGTKS tại nước ta lại tăng rất nhanh với những diễn biến khá phức tạp.
Từ cuộc Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 1999, khi đó TSGTKS là 107 bé trai/100 bé gái. Đến cuộc Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2009, tỉ số này là 110,5 và tăng lên 113,8 năm 2013, cho đến nay tỉ số này vẫn dao động xung quanh ngưỡng 112,2. Theo phân tích của các nhà điều tra nhân khẩu học, có những đặc điểm rất ngạc nhiên và rất riêng của Việt Nam được nhìn thấy từ TSGTKS.
TSGTKS tại Việt Nam cao ngay trong lần sinh đầu tiên (110,2). Tại lần sinh thứ hai, số liệu cho thấy áp lực sinh con trai đã được giảm bớt và đưa TSGTKS quay trở về gần với mức cân bằng sinh học. Tuy nhiên, tại lần sinh thứ ba trở lên, áp lực bắt buộc phải có con trai được thể hiện một cách mạnh mẽ nhất. TSGTKS ở lần này tăng lên rất cao 120,2 bé trai/100 bé gái; đặc biệt là đối với các cặp vợ chồng chưa có con trai, tỉ số này lên tới 148,4/100.
Đặc điểm khiến nhiều người bất ngờ là TSGTKS tăng lên theo trình độ học vấn của người mẹ. Lâu nay, người ta cứ nghĩ tình trạng mất cân bằng TSGTKS sẽ rơi vào nhóm các bà mẹ có học vấn thấp nhưng kết quả lại cho thấy ngược lại. TSGTKS tăng từ mức 106 – 111 ở các bà mẹ có trình độ Tiểu học lên mức 113 ở bậc THPTvà cuối cùng là 115 ở bậc Đại học trở lên (Điều tra Dân số và Nhà ở giữa kỳ 1/4/2014). Điều đáng ngạc nhiên là ở nhóm những bà mẹ với 3 năm đi học, TSGTKS tương tự mức sinh học tự nhiên là 105.
Một đặc điểm tiếp theo cũng rất đáng quan tâm là tỉ lệ các bà mẹ biết giới tính thai nhi trước khi sinh rất cao, chủ yếu bằng phương pháp siêu âm. Điều tra biến động dân số, 2013 của Tổng cục Thống kê cho thấy: 83% bà mẹ biết giới tính thai nhi trước khi sinh. Theo báo cáo biến động dân số thời điểm 1/4/2015 của Tổng cục Thống kê, bà mẹ biết giới tính trước khi sinh từ 15 đến 28 tuần (74,3%); dưới 15 tuần (23,9%) và trên 28 tuần (1,8%); 98,1% biết giới tính trước khi sinh qua siêu âm.
Sự lạm dụng khoa học, công nghệ đã dẫn tới việc lựa chọn giới tính thai nhi ngày càng lan rộng trên hầu khắp các địa phương. Nếu không có những biện pháp can thiệp quyết liệt, nước ta sẽ thiếu khoảng 2,3 - 4,3 triệu phụ nữ vào năm 2050, gây hệ lụy cho sự phát triển bền vững.
Cần sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị
Những người làm công tác dân số đang đứng trước những lo lắng về hệ lụy của việc mất cân bằng TSGTKS này cả về mặt xã hội, kinh tế và an ninh. Ông Nguyễn Văn Tân, Phó Tổng cục trưởng phụ trách Tổng cục DS-KHHGĐ (Bộ Y tế) cho biết, mất cân bằng TSGTKS sẽ gây ra những hệ lụy biến động xã hội theo chiều hướng xấu: Sự khan hiếm cô dâu có thể dẫn đến việc phụ nữ phải kết hôn sớm, tỉ lệ ly hôn và tái hôn của phụ nữ sẽ cao, có sự cạnh tranh, giành giật trong quá trình tìm kiếm bạn đời; nguy cơ gia tăng tình trạng mua bán phụ nữ và trẻ em, đặc biệt dễ gia tăng tình trạng mại dâm, xâm hại tình dục…
Trước thực trạng trên, Đảng và Nhà nước đã có những giải pháp tích cực nhằm khắc phục. Ngày 23/3/2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 486/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh giai đoạn 2016-2025 với mục tiêu khống chế có hiệu quả tốc độ gia tăng TSGTKS, tiến tới đưa TSGTKS trở lại mức cân bằng tự nhiên, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phục vụ sự nghiệp CNH,HĐH đất nước. Ngay sau đó, Bộ Y tế có Quyết định số 1472/QĐ-BYT ngày 20/4/2016 và Công văn số 4111/BYT-TCDS ngày 05/7/2016 của Bộ Y tế chỉ đạo game bài đổi thưởng phối hợp với các sở, ngành có liên quan xây dựng kế hoạch thực hiện Đề án của tỉnh.
Ngành Dân số cơ quan được giao thực hiện Đề án Kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh giai đoạn 2016 – 2025 với sự quan tâm chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Y tế đã có nhiều hoạt động nỗ lực, cũng với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị trong nhiều năm qua đã có nhiều kết quả khả quan nhưng vẫn chưa được như mong đợi. Ở bình diện chung toàn quốc, tốc độ gia tăng TSGTKS đạt chỉ tiêu đề ra, nhưng ở một số địa phương chỉ tiêu này là không đạt mặc dù đã có nhiều giải pháp can thiệp. Theo dõi số liệu báo cáo thống kê chuyên ngành Dân số hàng năm, trên 50% số tỉnh, thành phố TSGTKS của năm sau cao hơn năm trước. Riêng năm 2016, chỉ có 18 tỉnh, thành phố có TSGTKS giảm, còn 45 tỉnh, thành phố có TSGTKS tăng so với năm 2015. Các tỉnh Đồng bằng sông Hồng, miền núi phía Bắc, TSGTKS vẫn tăng hàng năm. Năm 2014, 15/63 tỉnh, thành phố có TSGTKS trên 115/100 là những tỉnh thuộc miền núi phía Bắc, Đông Nam Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ. Năm 2015, giảm xuống 13/63 tỉnh, thành nhưng tăng thêm ở khu vực Tây Nguyên và Đồng bằng sông Cửu Long. Năm 2016, tăng lên 22/63 tỉnh, thành.
Theo bà Trần Thị Bích Hằng, Chủ tịch Công đoàn Y tế Việt Nam, bên cạnh việc tự chấp nhận những quan niệm cổ hủ, bản thân nhiều phụ nữ bị áp lực dòng họ, áp lực của gia đình nhà chồng. Do đó, công tác tuyên truyền phải tập trung cả vào các bậc ông bà, nam giới mới có được kết quả bền vững. “Khi người dân không có quan niệm coi con trai hơn con gái thì họ sẽ không có nhu cầu siêu âm để biết giới tính thai nhi và sẽ không có hành vi lựa chọn giới tính thai nhi”.
Ông Nguyễn Văn Tân cho rằng, để đưa được TSGTKS về mức sinh học tự nhiên 103 – 107 bé trai/100 bé gái không chỉ là nỗ lực của ngành DS-KHHGĐ, mà cần sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị. "Việc giảm TSGTKS là một việc rất khó khăn, không thể ngày một ngày hai mà nó đòi hỏi sự kiên trì, quyết liệt của tất cả chúng ta. Đây là một việc rất khó nhưng không thể không làm. Tôi tin rằng với sự đồng lòng, quyết tâm hành động, chúng ta sẽ đưa được TKGTKS quay trở về mức bình thường”, ông Nguyễn Văn Tân nói.
Để đưa TSGTKS về mức cân bằng tự nhiên, Nghị quyết số 21-NQ/TW về công tác dân số trong tình hình mới của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII chỉ rõ: Nâng cao nhận thức, thực hành về bình đẳng giới; đẩy mạnh truyền thông giáo dục hành vi nhằm giảm thiểu mất cân bằng GTKS. Rà soát, bổ sung quy định của pháp luật về nghiêm cấm lựa chọn giới tính thai nhi. Ngăn ngừa có hiệu quả việc lạm dụng khoa học – công nghệ để lựa chọn giới tính thai nhi. Đẩy mạnh công tác bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ. Theo đó, mục tiêu Nghị quyết đề ra đến năm 2030 là TSGTKS dưới 109 bé trai/100 bé gái sinh ra sống.
Dưới đây là nguồn số liệu Nghiên cứu Giới và Gia đình Việt Nam, 2012 của Viện Nghiên cứu phát triển xã hội với 7.285 nam giới và phụ nữ đã lập gia đình trong độ tuổi 18 – 65 tại 9 tỉnh, thành phố. Đồng thời có thêm số liệu từ khảo sát các biện pháp sinh con theo ý muốn , 2015 của Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới với 200 phụ nữ và nam giới độ tuổi 18 – 49 tại Hưng Yên.
- 36,7% cho rằng, gia đình nhất thiết phải có con trai (Điều tra Gia đình Việt Nam 2006)
- 28,3% người trả lời cho rằng, gia đình nhất thiết phải có con trai (Nghiên cứu Giới và Gia đình Việt Nam 2012)
- 35% (trong số 200 người) nhận định, việc sử dụng biện pháp sinh con theo ý muốn là hiện tượng bình thường; nó giúp cho nhiều gia đình thỏa mãn mong muốn sinh được con trai
- 34% (trong số 200 người) nhận định, không nên sử dụng biện pháp vì không cần thiết phải làm như thế, con là lộc trời cho, con nào cũng là con.